BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH Báo cáo kết quả kinh doanh là cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ. Các t...
BÁO
CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
Báo cáo kết quả kinh doanh là cung cấp
thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ. Các thông tin
về thu nhập, chi phí, lợi nhuận trên báo cáo này hết sức quan trọng với đa số
người sử dụng báo cáo tài chính. Bài viết này sẽ trả lời cho các câu hỏi: Người
ta sử dụng báo cáo kết quả kinh doanh để làm gì? Báo cáo kết quả kinh doanh có
các hạn chế nào? Chất lượng thu nhập là gì và nó bị ảnh hưởng bởi các nhân tố
nào.
Tác
dụng của báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh giúp người sử
dụng báo cáo tài chính dự đoán dòng tiền trong tương lai theo nhiều cách thức.
Ví dụ các nhà đầu tư và các chủ nợ sử dụng thông tin trong báo cáo kết quả kinh
doanh để:
1. Đánh giá kết quả thực hiện của công
ty trong quá khứ. Xem xét các khoản doanh thu và chi phí để xác định kết quả
công ty đã thực hiện và cho phép việc so sánh kết quả thực hiện của nó với các
đối thủ cạnh tranh. Ví dụ các nhà phân tích sử dụng dữ liệu được cung cấp bởi
Ford để so sánh hiệu quả hoạt động của nó với Toyota.
2. Cung cấp cơ sở cho việc dự đoán kết
quả thực hiện trong tương lai. Thông tin về kết quả thực hiện trong quá khứ sẽ
giúp xác định các xu hướng quan trọng, và nếu tiếp tục sẽ cung cấp thông tin về
kết quả thực hiện trong tương lai. Ví dụ Vinamilk trong một thời gian dài đã
báo cáo sự tăng trưởng ổn định của doanh thu. Hiển nhiên rằng các thành công
trong quá khứ không nhất thiết đem lại sự thành công trong tương lai. Tuy
nhiên, các nhà phân tích có thể dự kiến một cách tốt hơn về doanh thu trong
tương lai, và do đó là lợi nhuận và các dòng tiền, nếu tồn tại sự tương qua phù
hợp giữa kết quả thực hiện quá khứ và tương lai.
3. Giúp đánh giá mức độ rủi ro hay tính
không chắc chắn của các dòng tiền đạt được trong tương lai. Thông tin về một
loạt các thành phần khác nhau của thu nhập: doanh thu, chi phí, thu nhập khác,
chi phí khác làm nổi bật lên mối quan hệ giữa chúng. Nó cũng giúp cho đánh giá
rủi ro của việc không đạt được một mức cụ thể của các dòng tiền trong tương
lai. Ví dụ, các nhà đầu tư và các chủ nợ thường tách biệt kết quả hoạt động
kinh doanh của công ty Masan với các nguồn thu nhập không thường xuyên khác bởi
vì Masan chủ yếu tạo ra doanh thu và tiền từ các hoạt động kinh doanh của nó.
Tóm lại, các thông tin trong báo cáo thu
nhập: các khoản doanh thu, chi phí, thu nhập khác, chi phí khác giúp người sử
dụng đánh giá về kết quả đã thực hiện. Nó cũng cung cấp một cái nhìn thấu đáo
về khả năng đạt được một mức cụ thể của các dòng tiền trong tương lai.
Các
hạn chế của báo cáo kết quả kinh doanh
Bởi vì thu nhập thuần là một sự ước tính
và dựa trên một loạt các giả định, người sử dụng báo cáo kết quả kinh doanh cần
thận trọng với các hạn chế nhấn định gắn liền với các thông tin của nó. Một số
hạn chế bao gồm:
1. Các công ty bỏ qua các khoản mục từ
báo cáo thu nhập mà chúng không thể đo lường một cách đáng tin cậy. Các nguyên
tắc thực hành kế toán hiện hành cấm việc ghi nhận một số khoản mục nhất định
trong việc xác định thu nhập mặc dù ảnh hưởng của các khoản mục này đến kết quả
thực hiện của công ty được nhiều người công nhận. Ví dụ: một công ty có thể
không ghi nhận các khoản thu nhập chưa thực hiện và các khoản lỗ trong các
chứng khoán đầu tư nhất định vào thu nhập khi có sự không chắc chắn về việc
chúng sẽ hiện thực sự thay đổi về giá trị. Ngoài ra, ngày càng nhiều công ty
như Samsung, Apple đã cho chúng ta thấy về sự gia tăng giá trị của công ty do
việc làm tăng tính nhận diện thương hiệu, dịch vụ khách hàng, chất lượng sản
phẩm. Một khuôn khổ kế toán chung cho việc xác định báo cáo các giá trị đó vẫn
chưa có.
2. Số liệu thu nhập bị ảnh hưởng bởi các
phương pháp kế toán được lựa chọn. Một công ty có thể khấu hao các tài sản cố
định của mình theo phương pháp khấu hao nhanh, công ty khác lại chọn khấu hao
theo đường thẳng. Giả sử tất cả các yếu tố đều cân bằng, công ty thứ nhất sẽ
báo cáo thu nhập thấp hơn. Và kết quả là chúng ta đang đi so sánh các quả táo
với các quả cam!
3. Đo lường thu nhập liên quan đến các
xét đoán chuyên. Ví dụ, một công ty với niềm tin lạc quan có thể ước tính thời
gian sử dụng hữu ích của một tài sản là 20 năm, trong khi đó công ty khác ước
tính 15 năm cho cùng một loại tài sản. Tương tự, một số công ty có thể ước tính
một cách lạc quan về chi phí bảo hành và các khoản nợ xấu phải xóa sổ trong
tương lai, và kết quả là nó báo cáo chi phí thấp hơn và lợi nhuận cao hơn.
4. Các khoản đầu tư để tạo nên giá trị
trong tương lại như đầu tư vào bản quyền, nhãn hiệu, bằng sáng chế, và các tài
sản vô hình khác nếu không thỏa mãn các tiêu chuẩn ghi nhận của chuẩn mực kế
toán tài sản cố định vô hình thì được ghi vào chi phí thời kỳ, như chi phí
lương và thuê tài sản, các chi phí không đem lại lợi ích kinh tế trong tương
lai.
Tóm lại, một số hạn chế của báo cáo thu
nhập làm giảm tính hữu ích của thông tin của nó trong việc dự đoán về độ lớn,
thời gian và tính không chắc chắc của các dòng tiền trong tương lai.
Chất
lượng của thu nhập (Quality of Earnings)
Ở phần trước chúng ta đã thảo luận làm
nổi bật tầm quan trọng của thông tin trong báo cáo thu nhập cho các quyết định
đầu tư và cấp tín dụng, bao gồm việc đánh giá công ty và các nhà quản lý của
công ty. Các công ty cố gắng đáp ứng hoặc vượt qua kỳ vọng của các nhà phân
tích và do vậy giá cổ phiếu của chúng và giá trị của các quyền chọn cổ phiếu
cho nhà quản trị tăng lên. Kết quả là, các công ty có động cơ trong việc chế
biến thu nhập để đạt được lợi nhuận mục tiêu hoặc để làm cho các khoản thu nhập
xem ra ít rủi ro.
Các cơ quan quản lý nhà nước (chẳng hạn
Ủy ban chứng khoán Mỹ - SEC) đã bày tỏ lo ngại rằng các động lực để đáp ứng mục
tiêu về lợi nhuận có thể làm tổn hại các quy tắc thực hành kinh doanh tốt. Điều
này làm giảm chất lượng của thu nhập và chất lượng của báo cáo tài chính. Như
một chủ tịch của SEC đã chỉ ra: “Quản lý có thể đưa đến con đường chế biến thu
nhập; tính chính trực có thể không còn và chuyển thành sự đánh lừa”. Do vậy SEC
đã có những hành động dứt khoát để ngăn ngừa việc thực hiện quản trị lợi nhuận
(earnings management).
Quản trị lợi nhuận là gì? Nó thường được
định nghĩa là việc lên kế hoạch về thời gian của doanh thu, chi phí, thu nhập khác,
chi phí khác để điều hòa sự biến động ngoài ý muốn của các khoản thu nhập.
Trong hầu hết các trường hợp, các công ty sử dụng quản trị lợi nhuận để tăng
thu nhập trong năm hiện hành và chuyển chi phí sang những năm tới. Ví dụ, họ
ghi nhận sớm các khoản doanh thu để tăng thu nhập. Như một nhà bình luận đã lưu
ý, “... nó giống với bật nút chai khi mở chai rượu vang trước khi nó đã sẵn
sàng”.
Các công ty cũng sử dụng việc quản trị
lợi nhuận để làm giảm các khoản thu nhập hiện hành để tăng thu nhập trong tương
lai. Trường hợp cổ điển là việc sử dụng “lọ bánh” dự trữ. Các công ty thiết lập
các khoản dự trữ bằng việc sử dụng các giả định phi thực tế để ước lượng các
nghĩa vụ nợ cho các khoản mục như tổn thất của các khoản cho vay, chi phí tái
cơ cấu, hàng bị trả để bảo hành. Các công ty sau đó giảm các khoản dự trữ trong
tương lai để tăng thu nhập trong tương lai.
Việc quản lý trị lợi nhuận như vậy ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng thu nhập nếu nó bóp méo thông tin theo một cách
thức mà giảm sự hữu ích trong việc dự đoán các khoản thu nhập và dòng tiền
trong tương lai. Thị trường dựa trên sự tin tưởng. Các giao kèo giữa các cổ
đông và công ty phải được giữ vững. Các nhà đầu tư và những người khác mất niềm
tin vào số liệu trình bày trên báo cáo tài chính sẽ làm tổn hại đến thị trường
vốn của một quốc gia.
Các động cơ để các nhà quản lý thực hiện
quản trị lợi nhuận là gì, sự khác biệt nào giữa quản trị lợi nhuận với gian lận
(fraud) như thế nào, và các cách thức mà các nhà quản lý thực hiện quản trị lợi
nhuận sẽ được bàn đến trong một số note sau.
Tài liệu tham khảo
1. Intermediate Accounting, 15th edn,
Kieso, Weygandt, Warfield, Wiley, 2015
2. The end of Accounting, Baruch Lev, Fengu, Wall Street Journal, 2016
2. The end of Accounting, Baruch Lev, Fengu, Wall Street Journal, 2016
Trích : Facebook Nguyễn Mạnh Hiền
Không có nhận xét nào