1. Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công Cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền cô ng có trách nhiệm khai quyết toán th...
1. Cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công
Cá nhân cư
trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công có trách nhiệm khai quyết toán thuế
nếu có số thuế phải nộp thêm hoặc có số thuế nộp thừa đề nghị hoàn hoặc bù trừ
thuế vào kỳ khai thuế tiếp theo, trừ các trường hợp sau:
- Cá nhân có số thuế phải nộp nhỏ hơn số thuế đã tạm nộp mà
không có yêu cầu hoàn thuế hoặc bù trừ thuế vào kỳ sau.
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng
lao động từ 03 tháng trở lên tại một đơn
vị mà có thêm thu nhập vãng lai ở các nơi khác bình quân tháng trong năm không
quá 10 triệu đồng đã được đơn vị trả thu nhập khấu trừ thuế tại nguồn theo tỷ lệ
10% nếu không có yêu cầu thì không quyết toán thuế đối với phần thu nhập này.
- Cá nhân được người sử dụng lao động mua bảo hiểm nhân
thọ (trừ bảo hiểm hưu trí tự nguyện), bảo hiểm không bắt buộc khác có tích lũy
về phí bảo hiểm mà người sử dụng lao động hoặc doanh nghiệp bảo hiểm đã khấu
trừ thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ 10% trên khoản tiền phí bảo hiểm tương ứng
với phần người sử dụng lao động mua hoặc đóng góp cho người lao động
theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 14
Thông tư số 92/2015/TT-BTC thì không phải quyết toán thuế đối với phần thu nhập
này.
2.
Tổ chức trả thu nhập từ tiền lương, tiền công
- Tổ chức trả thu nhập từ tiền lương,
tiền công không phân biệt có phát sinh khấu trừ thuế
hay không phát sinh khấu trừ thuế có trách nhiệm khai quyết toán thuế và quyết
toán thuế thay cho cá nhân có uỷ quyền. Trường hợp tổ chức không phát sinh trả thu nhập từ tiền lương,
tiền công trong năm 2015 thì không phải khai quyết toán thuế TNCN.
- Tổ chức trả thu nhập chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể hoặc phá sản theo quy định của Luật Doanh
nghiệp thì phải quyết toán thuế đối với số thuế thu nhập cá nhân đã khấu trừ chậm nhất là ngày
thứ 45
(bốn mươi lăm) kể từ ngày chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi, giải thể hoặc
phá sản và cấp chứng từ khấu trừ thuế cho người
lao động để làm cơ sở cho người lao động thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp chuyển đổi loại hình doanh nghiệp mà bên tiếp nhận kế thừa toàn bộ nghĩa vụ về
thuế của doanh nghiệp trước chuyển đổi (như chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ
Công ty trách nhiệm hữu hạn sang Công ty cổ phần hoặc ngược lại; chuyển đổi
Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành Công ty cổ phần và các trường hợp khác
theo quy định của pháp luật) thì doanh nghiệp trước chuyển đổi không phải khai
quyết toán thuế đến thời điểm có quyết định về việc chuyển đổi doanh nghiệp và
không cấp chứng từ khấu trừ thuế đối với người lao động được điều chuyển từ tổ
chức cũ đến tổ chức mới, bên tiếp nhận thực hiện khai quyết toán thuế năm theo
quy định.
Trường hợp sau khi tổ chức lại doanh
nghiệp (chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi), người lao động được điều
chuyển từ tổ chức cũ đến tổ chức mới (tổ chức được hình thành sau khi tổ chức lại
doanh nghiệp), cuối năm người lao động có ủy quyền quyết toán thuế thì tổ chức
mới phải thu lại chứng từ khấu trừ thuế TNCN do tổ chức cũ đã cấp cho người lao
động để làm căn cứ tổng hợp thu nhập, số thuế đã khấu trừ và quyết toán thuế
thay cho người lao động.
Riêng tổ chức trả thu nhập giải thể, chấm dứt
hoạt động có phát sinh trả thu nhập nhưng không phát sinh khấu trừ thuế TNCN thì tổ
chức trả thu nhập không thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân, chỉ cung cấp
cho cơ quan thuế danh sách cá nhân đã chi trả thu nhập trong năm (nếu có) theo
Mẫu số 05/DS-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015 của Bộ Tài chính chậm nhất là ngày thứ 45 kể từ ngày có quyết định về việc
giải thể, chấm dứt hoạt động.
Không có nhận xét nào