Một số điểm mới về chế độ thai sản trong Luật BHXH (sửa đổi) và dự báo tác động Chế độ thai sản theo Luật BHXH (sửa đổi) Thai sản ...
Một số điểm mới về chế độ thai sản trong Luật BHXH (sửa đổi) và dự báo tác động
![]() |
Chế độ thai sản theo Luật BHXH (sửa đổi) |
Thai sản là một trong 02 chế độ BHXH ngắn hạn nằm trong chế định quy định
về BHXH bắt buộc được Đảng và Nhà nước ta tổ chức thực hiện từ những năm đầu
thành lập nước. Trải qua các thời kỳ của chính sách pháp luật, đến Luật BHXH
năm 2006 ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, chế độ thai sản đã
khẳng định được sự hoàn thiện, tiên tiến của một chế định nằm trong chính sách,
chiến lược về an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu của người lao động nữ tham gia
BHXH và hưởng chế độ, có tính kế thừa những tinh hoa, thành tựu của các quy định
đã có từ trước. Bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ thì chế độ thai sản được
quy định tại Luật BHXH năm 2006 vẫn còn có điểm bất cập, chưa bao phủ được hết
đối tượng hưởng và đáp ứng quyền lợi, nhu cầu thiết yếu người lao động… Để đảm
bảo phát huy tối đa tính công bằng, nhân văn và quyền lợi người lao động tham
gia BHXH theo hướng tiến bộ, văn minh hơn, đáp ứng xu thế chung của xã hội phát
triển, Luật BHXH (sửa đổi) vừa được thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa
XIII đã bổ sung một số quy định mới đối với chế độ thai sản, cụ thể:
Về đối tượng hưởng chế độ thai sản
Thứ nhất, Luật BHXH (sửa đổi) bổ sung thêm điều kiện về đối tượng hưởng,
theo đó, lao động nam đóng BHXH có vợ sinh con được hưởng trợ cấp thai sản một
lần, trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, khi mẹ sinh con thì cha được trợ cấp
một lần bằng 02 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con. Tại Luật BHXH năm 2006 quy
định điều kiện về đối tượng hưởng chế độ thai sản là lao động nữ đóng BHXH mang
thai, sinh con; lao động nữ và nam đóng BHXH nhận nuôi con nuôi thì được hưởng
chế độ thai sản. Với quy định hiện tại thì lao động nam tham gia BHXH nhận nuôi
con nuôi, được hưởng chế độ thai sản nhưng có vợ sinh con mà vợ không tham gia
BHXH thì không được hưởng chế độ thai sản. Điều đó đồng nghĩa với việc con nuôi
thì được hưởng chế độ còn con đẻ thì không, mặc dù người lao động có tham gia
BHXH. Bổ sung nội dung trên đáp ứng kịp thời quyền lợi của người tham gia BHXH,
tạo môi trường công bằng và bình đẳng hơn đến mức có thể đối với người tham gia
BHXH trên nguyên tắc có đóng, có hưởng.
Thứ hai, bổ sung điều khoản quy định lao động nữ đã đóng BHXH từ đủ 12
tháng trở lên khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở
khám, chữa bệnh có thẩm quyền, thì phải đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong
vòng 12 tháng trước khi sinh con. Theo quy định pháp luật hiện hành thì người
lao động tham gia BHXH sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được hưởng chế độ thai
sản khi đảm bảo điều kiện đã đóng BHXH đủ 06 tháng trong thời hạn 12 tháng trước
khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Đối với trường hợp người lao động đã tham
gia BHXH trong thời gian dài nhưng đến khi mang thai vì lý do sức khỏe phải nghỉ
việc để dưỡng thai, thời gian đi làm đồng nghĩa với việc tham gia BHXH trong
quá trình mang thai đến khi sinh con không đủ 06 tháng sẽ không được chế độ
BHXH về thai sản. Nội dung này đã trở thành bất cập khi thực hiện chế độ chính
sách đối với lao động nữ nếu áp dụng công thức cào bằng được thiết lập trong điều
kiện về thời gian nhất định, mà không xem xét đến cả một quá trình, tạo ra sự
thiếu công bằng, bình đẳng và gây thiệt thòi cho nhóm đối tượng rơi vào những
trường hợp nêu trên. Vì vậy, Luật BHXH (sửa đổi) đã bổ sung thêm quy định điều
kiện hưởng đối với đối tượng đã có thời gian tham gia BHXH trước đó là 12
tháng, đến khi mang thai vì lý do sức khỏe phải nghỉ việc thì chỉ cần có thời
gian tham gia BHXH đủ 03 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh sẽ được hưởng
chế độ thai sản theo quy định.
Thứ ba, bổ sung điều khoản đối với lao động nam đang đóng BHXH khi vợ
sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 05 ngày làm việc; 07 ngày làm việc
khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày làm việc
khi vợ sinh đôi, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày
làm việc; 14 ngày làm việc trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được tính kể từ
30 ngày đầu vợ sinh con. Theo quy định hiện hành, chưa có nội dung quy định cho
cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi có vợ sinh con (trừ trường hợp sau
khi sinh mẹ chết).
Thứ tư, bổ sung chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ
nhờ mang thai hộ. Theo đó, lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khám
thai, sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu và chế độ khi sinh con cho đến
thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời
gian theo chế độ sinh con.
Thứ năm, bổ sung nội dung trong trường hợp cha hoặc người trực tiếp
nuôi dưỡng tham gia BHXH không nghỉ việc theo quy định trên, ngoài tiền lương
còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy
định.
Thứ sáu, bổ sung nội dung trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, mẹ chết
sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh, không còn khả năng chăm sóc con
có xác nhận của cơ sở y tế theo thẩm quyền thì người cha được nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
Về thời gian hưởng chế độ khi sinh con
Luật BHXH (sửa đổi) quy định, đối với lao động nữ khi sinh con được nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp
lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ
được nghỉ thêm 01 tháng (điều khoản này đã được quy định tại Bộ luật Lao động
năm 2012 và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/05/2013).
Đánh giá tác động của việc sửa đổi chế độ, chính sách đối với việc cân
đối nguồn quỹ thành phần (ốm đau, thai sản).
Qua tổng kết việc sử dụng quỹ ốm đau, thai sản khi Luật BHXH năm 2006
có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 cho thấy, tỷ lệ sử dụng quỹ ngày càng tăng so với
mức thu. Năm 2011, tỷ lệ sử dụng quỹ ốm đau, thai sản là 66%; năm 2012 là 79%
và năm 2013 đã tăng lên 85%. Số địa phương có mức chi vượt mức thu cũng tăng
đáng kể theo thời gian. Năm 2011, có 04 BHXH tỉnh, thành phố có mức chi quỹ ốm
đau, thai sản từ trên 100% trở lên so với số thu (tỉnh cao nhất là 124%), 08
BHXH tỉnh, thành phố có mức chi dưới 50%; năm 2012, 16 BHXH tỉnh, thành phố có
mức chi từ trên 100% trở lên so với số thu (tỉnh cao nhất là 145%), 02 BHXH tỉnh,
thành phố có mức chi 50%, không có địa phương nào chi dưới 50% và năm 2013, đã
có 20 BHXH tỉnh, thành phố có mức chi từ 100% trở lên (tỉnh cao nhất là 173%),
02 BHXH tỉnh, thành phố có mức chi đến 60% và gần 60%, không có BHXH tỉnh/thành
phố nào dưới có mức chi từ 50% trở xuống. Do tác động của việc thay đổi chính
sách, pháp luật cũng như tác động của một số biến động xã hội, chính trị, trong
thời gian tới, dự báo quỹ ốm đau, thai sản sẽ còn nhiều biến động, mức chi có
thể sẽ biến động theo chiều hướng tăng cao, có thể kể đến một số nguyên nhân
tác động sau:
Tác động từ xu hướng thay đổi chế độ, chính sách pháp luật
Luật BHXH (sửa đổi) với việc bổ sung một số đối tượng hưởng chế độ thai
sản và thời gian hưởng như đã phân tích ở trên, dự báo thời gian tới số sử dụng
nguồn quỹ thành phần ốm đau, thai sản sẽ tăng nhiều so với trước. Chẳng hạn, chỉ
tạm tính với nội dung bổ sung “nam được hưởng chế độ thai sản từ 05 đến 07 ngày
khi có vợ sinh con” và tác động với tình hình sử dụng quỹ, có thể đưa ra con số
dự báo như sau: Tính từ tháng 01/2007 đến hết năm 2013, số lượt người hưởng chế
độ thai sản là 4.166.941 lượt người với số tiền là 30.375 tỷ đồng. Tạm tính
bình quân mỗi năm sẽ có 595.277 lượt người hưởng chế độ thai sản bao gồm cả
sinh con, nạo hút thai, thai chết lưu… Tạm tính 50% số lượt người bình quân năm
là hưởng chế độ sinh con sẽ là 297.614 lượt người. Nếu chế độ thai sản cho nam
giới hưởng từ 5-7-10-14 ngày được đi vào thực hiện sẽ có thêm phần chi tạm tính
như sau: Lương bình quân tháng đóng BHXH từ năm 2007 đến năm 2012 của nữ giới
là 2.028.029 đồng/tháng. Tạm lấy tiền lương bình quân tháng đóng BHXH của nam
giới bằng nữ giới, sẽ tính được 01 ngày lương của nam giới là 2.028.029 đồng/22
ngày = 92.100 đồng x 05 ngày = 460.000 đồng (tạm tính 05 ngày hưởng chế độ thai
sản)/một lượt người x 297.614 lượt người = 136.902.440.000 đồng. Như vậy, nếu
chế độ thai sản đối với nam giới nghỉ việc khi có vợ sinh con được thực hiện
thì hàng năm ước tính sẽ phải chi thêm gần 140 tỷ đồng từ quỹ thai sản.
Đối với nội dung “tăng thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản đối với lao
động nữ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi”, chỉ tính từ tháng 05/2013 trở lại
đây, theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012, chế độ thai sản đối với lao động
nữ được điều chỉnh tăng, hưởng từ 04 tháng lên 06 tháng, điều đó đã có sự tác động
không nhỏ đối với quỹ ốm đau, thai sản. Riêng việc tăng thêm 02 tháng hưởng chế
độ thai sản đối với lao động nữ sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, đã tăng thêm
33% số chi cho chế độ thai sản đối với đối tượng nêu trên. Chỉ so sánh giữa năm
2013 với năm trước cũng đã có sự khác biệt đáng kế, về đối tượng chi cho chế độ
thai sản năm 2013 tăng 13% so với năm 2012, còn số tiền chi hưởng chế độ thì
tăng lên 31%.
Tác động từ một số biến động xã hội, dịch chuyển cơ cấu kinh tế - xã hội
trong thời gian gần đây hay nguyên nhân chủ quan (yếu tố con người)
Việc hình thành các khu công nghiệp, các khu chế xuất tăng trong những
năm gần đây đã thu hút rất nhiều lao động phổ thông, lao động trẻ tuổi, đặc biệt
là lao động nữ đang độ tuổi sinh đẻ với tỷ lệ cao, nhiều đơn vị tỷ lệ lao động
nữ chiếm đến trên 90% tổng số lao động của đơn vị. Điều này đồng nghĩa với việc
mức chi quỹ ốm đau, thai sản tại các đơn vị đặc thù trên sẽ thường xuyên cao.
Công tác quản lý cũng như những quy định về chính sách, điều kiện hưởng và thủ
tục hồ sơ vẫn còn có kẽ hở để người lao động lạm dụng, đối phó, trục lợi quỹ; một
số đối tượng người lao động hiểu biết các quy định chính sách và chủ động có
các hành vi lạm dụng quỹ khi có sự tiếp tay của các cơ sở y tế trong việc xác
thực vào thủ tục hồ sơ để giải quyết chế độ.
Nhìn chung, nếu xem xét ở góc độ chính sách, xã hội, rõ ràng việc bổ
sung đối tượng hưởng, thời gian hưởng cũng như các điều kiện về đối tượng hưởng
nêu trên là phù hợp, mang tính nhân văn cao, đáp ứng nhu cầu thực tế đời sống,
xã hội người lao động, góp phần đảm bảo an sinh và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên,
trong công tác quản lý thu chi và cân đối quỹ thì chắc chắn khi mở rộng thêm đối
tượng hưởng nằm trong đối tượng thu đồng nghĩa là thu thì vẫn thế mà chi lại
tăng thêm, điều này sẽ có tác động không nhỏ đến việc cân đối nguồn quỹ thành
phần trong thời gian tới./.
Đại Thắng
Tạp chí Bảo hiểm Xã Hội
Không có nhận xét nào