Thông tư 200: không chỉ đơn thuần là kế toán Ngày 22-12-2014, Bộ Tài chính (BTC) đã ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC (TT200) hướng dẫ...
Thông tư 200: không chỉ đơn thuần là kế toán
Ngày
22-12-2014, Bộ Tài chính (BTC) đã ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC (TT200)
hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp cho các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế. TT200 được xem là quy định có thay đổi lớn nhất trong
chín năm qua.
Thông tư này có hiệu lực
từ ngày 5-2-2015 và áp dụng cho năm tài chính bắt đầu hoặc sau ngày 1-1-2015 và
thay thế chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC
(Quyết định 15) và Thông tư số 244/2009/TT-BTC.
TT200 có một số thay đổi
quan trọng được xem là sẽ có ảnh hưởng lớn đối với báo cáo tài chính (BCTC) của
doanh nghiệp và các chỉ tiêu tài chính mà chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhà
phân tích tài chính có thể rất quan tâm. Cụ thể như sau:
Ghi nhận doanh thu đối với hoạt động đầu tư, kinh
doanh bất động sản (BĐS)
TT200 đưa ra các quy
định về kế toán ghi nhận doanh thu BĐS mà Quyết định 15 trước đây chưa có quy
định cụ thể. Theo đó, doanh nghiệp là chủ đầu tư không được ghi nhận doanh thu
bán BĐS theo tiến độ xây dựng hoặc theo số tiền thu trước của khách hàng theo
tiến độ. Nếu theo thỏa thuận, chủ đầu tư giao nhà thô và khách hàng có quyền
hoàn thiện nội thất của BĐS hoặc chủ đầu tư thực hiện việc hoàn thiện nội thất
của BĐS theo đúng thiết kế, yêu cầu của khách hàng thì doanh thu chỉ được ghi
nhận khi hoàn thành, bàn giao phần xây thô cho khách hàng. Đối với BĐS phân lô
bán nền, doanh thu chỉ được ghi nhận sau khi chuyển giao nền đất cho khách
hàng.
Các doanh nghiệp là chủ
đầu tư BĐS trước đây đã ghi nhận doanh thu đối với số tiền thu trước của khách
hàng theo tiến độ, nếu công trình chưa hoàn thành trước thời điểm TT200 có hiệu
lực thì phải sửa chữa sai sót đã ghi nhận doanh thu và hồi tố BCTC.
Đối với các doanh nghiệp
có hoạt động cho thuê tài sản, có nhận trước tiền cho thuê của nhiều kỳ, nếu
thời gian cho thuê chiếm trên 90% thời gian sử dụng hữu ích của tài sản, doanh
nghiệp có thể lựa chọn phương pháp ghi nhận doanh thu một lần đối với toàn bộ
số tiền cho thuê.
Đối với bất động sản đầu
tư nắm giữ chờ tăng giá (BĐS không phải là hàng hóa kinh doanh trong hoạt động
của doanh nghiệp), doanh nghiệp không trích khấu hao mà xác định tổn thất do
suy giảm giá trị (khi giá trị thị trường xuống thấp hơn giá trị sổ sách của BĐS
đầu tư chờ bán) và ghi nhận khoản tổn thất vào chi phí.
Về mặt trình bày BCTC,
TT200 yêu cầu doanh nghiệp trình bày chi phí xây dựng thành phẩm BĐS dở dang có
thời gian hoàn thành ước tính hơn 12 tháng hoặc vượt quá một chu kỳ kinh doanh
thông thường trên khoản mục riêng trên bảng cân đối kế toán. Với yêu cầu này,
người đọc BCTC sẽ dễ dàng nhận biết giá trị các công trình xây dựng dở dang bị
đình trệ (chủ yếu do chủ đầu tư thiếu vốn) vốn là một hiện trạng thường gặp
trong các năm gần đây.
Các quy định chi tiết
trên góp phần giúp các BCTC thể hiện trung thực tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp trong ngành đầu tư, kinh doanh bất động sản.
Ghi nhận chi phí chiết khấu thương mại, khuyến mãi và
giảm giá hàng bán
Đây có thể xem là một
bước tiến lớn trong chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam do các hướng dẫn mới
của TT200 về kế toán chi phí chiết khấu thương mại, khuyến mãi và giảm giá hàng
bán rất gần với hướng dẫn trong chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), phù
hợp với nguyên tắc tôn trọng bản chất hơn hình thức, cụ thể như sau:
Trường hợp khách hàng
chỉ được nhận hàng khuyến mãi, quảng cáo kèm theo các điều kiện khác như phải
mua sản phẩm, hàng hóa (ví dụ như mua hai tặng một) thì phải phân bổ số tiền
thu được để tính doanh thu cho cả hàng khuyến mãi và giá trị hàng khuyến mãi
được tính vào giá vốn vì bản chất giao dịch này là giảm giá hàng bán.
Chi phí chiết khấu
thương mại, khuyến mãi theo doanh số (bao gồm cả chi phí trích trước cho các
khách hàng đã đủ điều kiện hưởng chiết khấu, khuyến mãi) không còn đưa vào chi
phí bán hàng như nhiều doanh nghiệp vẫn ghi nhận trước đây mà phải ghi giảm
trực tiếp lên doanh thu gộp hoặc ghi nhận vào các khoản giảm trừ doanh thu tùy
theo từng trường hợp cụ thể.
Khái niệm chương trình
dành cho khách hàng truyền thống được Bộ Tài chính đưa ra lần đầu tiên trong
TT200. Chương trình này khác với các chương trình chiết khấu, khuyến mãi khác
là đối với chương trình này, khách hàng được tích điểm thưởng để khi đạt đủ số
điểm theo quy định sẽ được nhận một lượng hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc được
giảm giá chiết khấu.
Theo TT200, khi phát
sinh giao dịch bán hàng theo chương trình khách hàng truyền thống, doanh nghiệp
sẽ không ghi nhận toàn bộ giá bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ vào doanh thu mà
phải ghi nhận doanh thu chưa thực hiện đối với phần nghĩa vụ còn phải thực hiện
với khách hàng là giá trị hợp lý của hàng hóa, dịch vụ miễn phí hoặc giảm giá.
Phần doanh thu chưa thực hiện này chỉ được kết chuyển vào doanh thu trên báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh vào cuối chương trình, khi có kết luận khách
hàng không đạt điều kiện để hưởng ưu đãi hoặc khi doanh nghiệp đã thực hiện
việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ ưu đãi cho khách hàng đủ điều kiện.
Một quy định mới nữa
trong TT200 là cho trường hợp nhà phân phối khuyến mãi hộ nhà sản xuất (nhận
hàng hóa không phải trả tiền từ nhà sản xuất để quảng cáo, khuyến mãi cho khách
hàng mua hàng của nhà sản xuất): nhà phân phối chỉ theo dõi chi tiết số lượng
hàng nhận từ nhà sản xuất trong hệ thống quản trị nội bộ mà không ghi nhận vào
thu nhập hay các khoản phải trả nhà sản xuất như nhiều doanh nghiệp vẫn ghi
nhận trước đây. Nhà phân phối chỉ ghi nhận thu nhập khác cho giá trị số hàng
khuyến mãi không phải trả lại nhà sản xuất khi hết chương trình khuyến mãi.
Các quy định trên có tác
động trực tiếp lên chỉ tiêu doanh thu gộp, doanh thu thuần, lợi nhuận gộp, chi
phí bán hàng, hệ số biên lợi nhuận gộp (gross profit margin ratio) và hệ số
biên lợi nhuận ròng (net profit margin ratio) của các doanh nghiệp là các chỉ
tiêu mà chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư và các nhà phân tích tài chính rất quan
tâm; và có khả năng ảnh hưởng lớn đến chính sách bán hàng của các doanh nghiệp
thường có nhiều chương trình chiết khấu, khuyến mãi và giảm giá hàng bán cho
khách hàng.
Do vậy, nhà đầu tư cần
xem xét các ảnh hưởng lớn này khi đánh giá tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi
nhuận gộp hoặc hiệu quả của chính sách bán hàng của doanh nghiệp để có những
kết luận chân thực nhất về tình hình của doanh nghiệp.
Ghi nhận dự phòng hoàn nguyên môi trường
TT200 yêu cầu doanh
nghiệp trích lập dự phòng cho các khoản chi phí hoàn nguyên môi trường, chi phí
thu dọn, khôi phục và hoàn trả mặt bằng (gọi tắt là dự phòng hoàn nguyên môi
trường) và ghi nhận vào chi phí trong kỳ trích lập. Theo đó, các doanh nghiệp
có văn phòng, nhà xưởng trên đất thuê có nghĩa vụ khôi phục và hoàn trả nguyên
trạng mặt bằng cho chủ đất khi kết thúc thời hạn thuê sẽ phải xem xét trích lập
dự phòng hoàn nguyên môi trường. Giá trị khoản dự phòng này có thể rất lớn và
làm gia tăng đáng kể chi phí trong kỳ của doanh nghiệp, cụ thể là chi phí của
năm tài chính 2015 khi doanh nghiệp trích lập dự phòng này lần đầu trong năm
2015 theo quy định của TT200. Thông tư không nêu rõ liệu doanh nghiệp phải
trích lập khoản dự phòng hoàn nguyên môi trường một lần hay có thể trích lập
đều dần qua các năm thuê đất.
Ghi nhận lãi phải thu từ các khoản cho vay
TT200 quy định đối với
tiền lãi phải thu từ các khoản cho vay, bán hàng trả chậm, trả góp: doanh thu
chỉ được ghi nhận khi chắc chắn thu được và khoản gốc cho vay, nợ gốc phải thu
không bị phân loại là quá hạn cần phải lập dự phòng. Đây là một quy định mới
tuân thủ theo nguyên tắc thận trọng. Một số doanh nghiệp có khả năng bị ảnh
hưởng lớn như công ty chứng khoán có hoạt động cho vay margin…
Cách tính lãi cơ bản trên cổ phiếu (basic EPS)
TT200 quy định rõ là
trường hợp quỹ khen thưởng, phúc lợi được trích từ lợi nhuận sau thuế, lãi cơ
bản trên cổ phiếu phải được xác định sau khi trừ số trích quỹ khen thưởng, phúc
lợi. Quy định này tác động lên chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu cho hầu hết
các doanh nghiệp niêm yết do đa phần các doanh nghiệp này đều có trích quỹ khen
thưởng, phúc lợi từ lợi nhuận sau thuế. Trên thực tế, quỹ khen thưởng, phúc lợi
thường được trích sau khi được đại hội đồng cổ đông phê duyệt, thường là xảy ra
sau khi doanh nghiệp đã phát hành BCTC. Như vậy, cách tính lãi cơ bản trên cổ
phiếu có thể sẽ không nhất quán giữa các doanh nghiệp do doanh nghiệp có thể
dùng số trích quỹ khen thưởng, phúc lợi của năm trước hoặc số tạm tính cho năm
báo cáo. Các nhà đầu tư, phân tích tài chính cần xem xét tác động của quy định
này khi dùng chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu để phân tích, so sánh khả năng
sinh lợi/hiệu quả đầu tư giữa các doanh nghiệp hoặc giữa các năm của cùng một doanh
nghiệp.
Lợi nhuận dùng để chia cổ tức
Công ty mẹ được phân
phối lợi nhuận cho chủ sở hữu không vượt quá mức lợi nhuận sau thuế chưa phân
phối trên BCTC hợp nhất sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của các khoản lãi do ghi
nhận từ giao dịch mua giá rẻ (bất lợi thương mại hay còn gọi là lợi thế thương
mại âm). Trường hợp mức lợi nhuận sau thuế chưa phân phối trên BCTC hợp nhất
cao hơn mức lợi nhuận sau thuế chưa phân phối trên BCTC riêng công ty mẹ và nếu
số lợi nhuận quyết định phân phối vượt quá số lợi nhuận sau thuế chưa phân phối
trên BCTC riêng, công ty mẹ chỉ thực hiện việc phân phối sau khi đã điều chuyển
lợi nhuận từ các công ty con về công ty mẹ.
Thuyết minh báo cáo tài chính
So với yêu cầu của Quyết
định 15 trước đây, TT200 gia tăng hàng loạt yêu cầu về thuyết minh BCTC như giá
trị hợp lý của các khoản đầu tư tài chính; nợ xấu phải thu và số có khả năng
thu hồi của nợ xấu; nợ phải trả người bán quá hạn chưa thanh toán; số có khả
năng trả nợ của nợ vay, nợ thuê tài chính, phải trả người bán... góp phần nâng
cao tính minh bạch, đáp ứng yêu cầu quản lý và ra quyết định kinh tế của chủ
doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, doanh
nghiệp cần phải xem xét nâng cấp hệ thống kế toán và quản trị nội bộ nhằm đảm
bảo khả năng tập hợp thông tin đầy đủ và thích hợp (bao gồm cả thông tin quá
khứ) cho mục đích lập BCTC tuân thủ theo yêu cầu của TT200.
PHẠM THỊ XUÂN MAI
Giám đốc Dịch vụ Kiểm toán và Bảo đảm - PwC Việt Nam
Không có nhận xét nào